Tác giả: Phan Thế Hải (Báo vietnamnet.vn)
Bài đã được xuất bản.: 8 giờ trước
(VEF.VN) - Khi Trung Quốc vào thu mua nông sản ồ ạt, các doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam mới tá hoả rằng, họ đang bị phá giá, bị chèn ép, thậm chí bị Trung Quốc sa mạc hoá nguyên liệu. Thế nhưng khi hỏi đến trách nhiệm xã hội của họ đối với nông dân thì ai cũng lảng tránh.
Chủ nhật vừa rồi, có việc về xứ Nghệ thăm phụ huynh, tôi cho xe chạy qua mấy xã đồng rừng hy vọng tìm lại cảm giác thời thơ ấu lên rừng đốn củi vào những vụ giáp hạt. Con đường liên huyện chạy qua các xã bán sơn địa nay không còn gập ghềnh đầy ổ gà như trước, thay vào đó là đường nhựa phẳng phiu. Hai bên đường, những cánh rừng đại ngàn cũng không còn, thay vào đó là những đồi sắn bạt ngàn cung cấp cho thị trường Trung Quốc.
Dừng xe hỏi thăm những người dân được biết, gần đây, thương lái Trung Quốc thu mua nhiều nên cây sắn được giá, trồng sắn thu nhập còn cao hơn trồng lúa. Điều này giải thích vì sao, những diện tích đất rừng thu hẹp từng ngày, nhường chỗ cho cây sắn chỉ vì sự hấp dẫn của lợi nhuận trước mắt.
Bỏ ngỏ thị trường khổng lồ
Thực ra thì chuyện thương lái xứ Tàu thu mua nông lâm sản Việt Nam không chỉ diễn ra ở quê tôi mà gần như là phổ biến ở mọi ngõ ngách của các chốn thâm sơn cùng cốc nước Việt. Từ đô thị tới nông thôn, từ Nam chí bắc, từ miền xuôi đến miền ngược, thương lái Trung Quốc đều không quản ngại đường xa khó nhọc, đâu đâu cũng bắt gặp họ. Những ông nói tiếng Việt lơ lớ, thi thoảng lại "hảo hảo", "xia xia nỉ" đích thân là thương lái Tàu rồi. Họ thu gom đủ mọi thứ, từ gỗ quý như Trắc, Sưa, Mun, nông sản có sắn lát, vải thiều, cao su, thịt lợn... Thuỷ hải sản có mực, cá đông lạnh, tôm... Thứ gì xứ ta có, họ thu mua thứ ấy.
Hệ thống phân phối nông sản Việt Nam đang bị phá vỡ bởi thương nhân Trung Quốc (ảnh minh họa)
Trước sự thâm nhập ồ ạt của thương lái Trung Quốc, có người hoài nghi rằng, phải chăng, đằng sau sự có mặt của họ có động cơ khác ngoài kinh tế? Người viết bài này không muốn bàn sâu về chủ đề ngoài chuyện thị trường. Đã nhiều lần đi Trung Quốc, làm việc với các thương lái người Hoa, có thể thấy, Trung Quốc là thị trường khổng lồ. Là nước lớn, sau hơn 30 năm cải cách mở cửa, với tốc độ phát triển kinh tế hàng năm hai con số, có thể nói, người Trung Quốc ngày nay đang có của ăn của để. Đầu năm nay, họ chính thức vượt qua Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Với dân số 1,3 tỷ người, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 3.000 USD/năm, có thể nói, Trung Quốc đang là thị trường tiêu thụ nông sản lớn nhất thế giới. Nói về Trung Quốc, một nhà báo Mỹ có nhận xét khá hóm: Đó là xứ đói ăn và khát dầu, thiếu năng lượng, lệ thuộc vào thị trường bên ngoài. Câu này chưa hẳn chính xác nhưng đã phản ánh khá sinh động hiện trạng của Trung Quốc. Một điều lạ là, nằm cạnh thị trường lớn như vậy, nhưng ở xứ ta, dường như chưa có một công trình nghiên cứu nào bài bản về thị trường ấy và chưa có chiến lược nào cho việc thâm nhập thị trường tiềm năng này. Điều này giải thích vì sao, khi Việt Nam là xứ đông dân, đói việc nhưng chỉ có lác đác vài người sang Trung Quốc tìm kiếm thị trường, thay vào đó là người Tàu ồ ạt sang Việt Nam, có mặt ở khắp mọi ngõ ngách của đất nước, vào tận chuồng heo của bà con nông dân xứ ta để gom hàng, lên tận những vùng núi xa xôi để đặt nông dân sản xuất nông sản cho họ. Rủi ro từ thương mại... chợ trời Theo thống kê của Bộ Công Thương, quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc năm 2010 đạt 27 tỷ USD, con số này của năm 2011 có thể đạt 30 tỷ USD. Việt Nam xuất sang Trung Quốc xấp xỉ 10 tỷ USD, số còn lại là Việt Nam nhập từ quốc gia láng giềng này. Trong số đó, khoảng 70% là thông qua đường chính ngạch, số còn lại là qua con đường tiểu ngạch. Hiện tại, buôn bán tiểu ngạch giữa hai nước ước đạt khoảng 30% trong tổng kim ngạch và con số này đang có xu hướng tăng nhanh. Đặc biệt, với hàng nông sản, quan hệ thương mại tiểu ngạch đang chiếm tỷ trọng lớn. TS Phạm Tất Thắng, chuyên gia kinh tế cao cấp, Viện nghiên cứu Thương mại cho rằng: Nông sản là mặt hàng liên quan chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn. Nơi đó có 70% dân số sinh sống. Thương mại tiểu ngạch có ưu điểm là linh hoạt, được giá nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc mua bán thông qua thương lái thường nóng lạnh như thị trường. Trong quá khứ đã có không ít lần hàng đoàn xe tải chở dưa hấu của Việt Nam bị ách ở cửa khẩu Tân Thanh hay Móng Cái, chỉ vì những lý do lãng xẹt: Trung Quốc tạm dừng nhập để kiểm tra tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Nông sản, đặc biệt là hoa quả tươi là thứ không bảo quản được lâu, khi bị ách chỉ có cách là bán tháo, thậm chí cho không, theo đó là nhiều chủ vựa bị phá sản. Một rủi ro thứ hai, khi thương lái bên Tàu thu mua được giá, kéo theo đó, nông dân đổ xô sản xuất mặt hàng ấy. Khi họ ngừng thu mua, hàng hoá ế, nông dân lỗ ê chề mà không biết kêu ai. Trường hợp vải thiều ở Lục Ngạn trong vụ này có phần từ nguyên nhân đó. Rủi ro thứ ba là, sự thâm nhập quá sâu của thương lái Trung Quốc, nguồn nguyên liệu Việt Nam bị thu gom đến cạn kiệt, gây khó khăn cho các cơ sở chế biến. Một số cơ sở chế biến thực phẩm của nước ta bị đói nguyên liệu, máy móc đắp chiếu dẫn đến thua lỗ có nguy cơ từ sự vơ vét của thương lái Trung Quốc. Tính đến nay, Việt Nam đã có 5 năm là thành viên của WTO, theo nguyên tắc của tổ chức này, quan hệ thương mại song phương hay đa phương đều phải dựa trên nguyên tắc minh bạch và đúng luật. Thương mại tiểu ngạch là thứ mà gần như không bị điều chỉnh bởi các chế tài của WTO. Khi có tranh chấp xẩy ra sẽ không có ai đứng ra dàn xếp hay bảo vệ lợi ích cho các bên tham gia. Đây được coi là rủi ro lớn nhất mà chúng ta phải tính tới khi làm ăn buôn bán với Trung Quốc theo kiểu... chợ trời. "Setup" lại hệ thống thương mại Hiện tượng thương lái Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam vơ vét nông sản ít nhiều đã làm xáo trộn xã hội. TS. Nguyễn Văn Nam, nguyên thành viên Ban nghiên cứu Thủ tướng Chính phủ cho rằng, ở cạnh một nước lớn như Trung Quốc, bên cạnh nguy cơ là cơ hội. Hàng hoá, nông sản làm ra có người mua là hạnh phúc rồi. Nông sản được giá đang làm thay đổi đời sống của một bộ phận nông dân. Vấn đề còn lại là phải tổ chức thị trường có bài bản để đảm bảo lợi ích lâu dài cho người sản xuất, hạn chế rủi ro trước những diễn biến xấu. Sau nhiều năm công nghiệp hoá, nhưng hiện tại Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp liên quan trực tiếp tới đời sống của gần 60 triệu dân, nhưng có thể nói chúng ta chưa có hệ thống thương mại được tổ chức một cách bài bản. Khi Trung Quốc vào thu mua nông sản ồ ạt, các doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam mới tá hoả ra rằng, họ đang bị phá giá, đang bị chèn ép, thậm chí đang bị Trung Quốc sa mạc hoá nguyên liệu. Thế nhưng khi hỏi đến trách nhiệm xã hội của họ đối với nông dân thì ai cũng lảng tránh. Rằng các DN Việt Nam đã làm gì để tổ chức vùng nguyên liệu và hệ thống thu mua bài bản, làm gì để đảm bảo lợi ích cho bà con nông dân một cách bền vững? Nếu họ làm được điều đó thì chắc chắn rằng, nông dân không vì lợi ích trước mắt để đến với thương lái Trung Quốc. Rồi nữa, về mặt quản lý nhà nước, các thương lái hồn nhiên vào Việt Nam một cách ồ ạt bằng hộ chiếu du lịch, đến với từng người dân, làm giá, đặt hàng, thu gom, trả tiền mặt, còn thương lái Việt Nam lại bỏ trống sân nhà. Ông Nam cho rằng, cần phải thể chế hoá hiện tượng này. Chúng ta không có ý định ngăn cấm thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhưng cần phải có các chế tài quản lý. Không thể để họ vào Việt Nam làm ăn, buôn bán bằng hộ chiếu du lịch mà không chịu sự quản lý của các cơ quan chức năng. Việc kinh doanh phải gắn liền với các nghĩa vụ tài chính với nước sở tại, chúng ta chưa đề cập tới chuyện đó. Như đã nói ở phần đầu, chỉ vì Trung Quốc thu mua sắn với giá cao mà một diện tích rừng không nhỏ đã biến mất nhường chỗ cho cây sắn. Nông dân thường bị hấp dẫn bởi lợi ích trước mắt, vài trò của nhà nước là phải chỉ cho họ thấy lợi ích lâu dài. Để làm được điều đó, không có cách nào khác là không được bỏ rơi nông dân và ban hành cách chính sách hợp lòng dân. Thương lái Trung Quốc ồ ạt thu gom nông sản, bên cạnh những nguy cơ, là những cơ hội lớn khi Nhà nước biết hoàn thiện hệ thống quản lý.